Vìệt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và
cũng như các thành vìên khác trong tổ chức phải thực hiện đầy đủ các Hiệp
định, trong đó có Hiệp định về quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại
(TRIPS),... Sự gia tăng nhu cầu về các loại sản phẩm và dịch vụ khiến nhượng
quyền đã trở thành mô hình kinh doanh thích hợp để phát triển nhanh chóng
trong ngành công nghiệp khách sạn và nàh hàng. Hình thức nhượng quyền chiếm
khoảng 50% tổng số phòng khách sạn hiện nay trên thế giới. Nhượng quyền
kinh doanh khách sạn mang lại những lợi ích lớn đồng thời cũng đưa đến những rủi
ro nhất định, mang lại những lợi thế cho nhà đầu tư thay vì họ phải tự xây
dựng từ đầu. Các khách sạn của Vìệt Nam cần rất thận trọng trước khi tham
gia vào hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại. Bài viết đề cập một số
lợi ích và rủi ro đối với các khách sạn, nhà hàng nhượng quyền, từ đó đề xuất
một số ý kiến trao đổi về phát triển hình thức nhượng quyền trong lĩnh vực
kinh

1. Vài nét về
quyền sở hữu trí tuệ và nhượng quyền trong kinh doanh khách sạn, nhà hàng
"nhượng quyền"
1.1. Hiệp định
TRIPS
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) và cũng như các thành vìên khác trong Tổ chức phải thực hiện đầy đủ
các Hiệp định: Hiệp định Thương mại và Thuế quan (GATT), Hiệp định Thương mại
dịch vụ (GATS), Hiệp định về quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại
(TRIPS),... Sở hữu trí tuệ có thể được định nghĩa một cách khái quát là sở hữu
sự sáng tạo của trí tuệ con người. Quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) là quyền hợp
pháp chi việc sử dụng những sáng tạo này. Các thành vìên của Tố chức thương mại
thế giới đều phải cam kết thực hiện các nghĩa vụ cơ bản như giảm các rào cản
thương mại, cải cách thủ tục thương mại và đặc biệt là cam kết bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ.
Hiệp định TRIPS được 160 nước thành vìên hiện
tại của WTO bắt buộc áp dụng và cũng sẽ áp dụng cho các thành viên tương lai.
Khi được áp dụng đầy đủ, hiệp định này sẽ tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
gần như trên toàn thế giới - tạo ra sức mạnh chưa có hiệp ước quốc tế nào đạt
tới. Hiệp định TRIPS bao trùm tất cả các quyền sở hữu trí tuệ chính, gồm cả các
lĩnh vực và quyền chưa được luật quốc tế hay trong một số trường hợp cả luật
quốc gia của các nước công nghiệp đề cập tới. Vìệc thực thi hiệp định này sẽ áp
đặt các thay đổi về luật sở hữu trí tuệ của một số nước thành vìên WTO không có
bất kỳ ngoại lệ nào. Những thay đổi này cũng tác động mạnh đến luật quy định và
các thủ tục hiện hành của các nước đang phát triển như Vìệt Nam.
Các điều khoản chính của hiệp định TRIPS có
thể phân chia thành 5 nhóm: tiêu chuẩn; thực thi; giải quyết tranh chấp; các quy
định và nguyên tắc chung; và những thỏa thuận chuyển đối. Về lâu dài, vìệc
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ khuyến khích sự sáng tạo ngay tại các nước đang
phát triển và có lợi đối với các nước đang phát triển. Nhưng hiện nay TRIPS
đang có xu hướng bất lợi cho các nước đang phát triển và kém phát triển, bởi
vì các phát minh sáng chế hiện nay chủ yếu là của các nước phát triển. TRIPS bảo
vệ quyền của người tạo ra sáng chế phát minh và quy định ai sử dụng sáng chế
phát minh cũng đều phải trả tiền. Trong khi đó, các nước đang phát triển lại
hầu như có rất ít phát minh sáng chế, họ muốn sử dụng các thành tựu phát minh
của các nước phát triển mà không phải trả tiền.
Hiện có 9 loại tài sản đang được thừa nhận và
bảo hộ bởi các công ước quốc tế, trong đó có nhãn hiệu thương mại phân biệt
hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp khác nhau (Công ước Paris, Hiệp định
Madrid, Hiệp ước về Luật nhãn hiệu thương mại). Tuy nhiên, trong các ngành dịch
vụ nói chung và ngành kinh doanh khách sạn nói riêng là các doanh nghiệp lớn
thường có xu hướng nhượng quyền thương hiệu, hình thành nên một hệ thống các
khách sạn nhượng quyền "franchise".
1.2. Nhượng
quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ thương
mại đúng pháp luật về dịch vụ, tên kinh doanh hay biểu tượng quảng cáo, giữa
doanh nghiệp và cá nhân hay một doanh nghiệp khác (gọi chung là người nhượng
quyền và người nhận quyền), để tìm kiếm các quyền để sử dụng vào kinh doanh.
Sự thỏa thuận này phụ thuộc vào phương pháp quản lý kinh doanh giữa hai bên.
Trong một hình thức đơn giản nhất, một nơi cấp quyền kinh doanh có quyền đối
với tên hay thương hiệu của mình và có thể bán quyền đó cho một chi nhánh (một
người nhận quyền) nào đó. Đó được coi là cấp tên thương hiệu hay tên sản phẩm.
Ở một hình thức phức tạp hơn, hoạt động nhượng quyền xây dựng một mối quan hệ
rộng hơn và luôn phát triển tồn tại giữa hai bên. Người nhận quyền thường yêu
cầu một dạng dịch vụ đầy đủ, bao gồm: Lựa chọn địa điểm; đào tạo; cung cấp sản
phẩm; kế hoạch marketing; vốn đầu tư. Nhìn chung, một người nhận quyền sẽ có
quyền kinh doanh mặt hàng hay dịch vụ mà được cung cấp bởi người nhượng quyền sẽ
cần thiết phải có những chất lượng tiêu chuẩn của người nhượng quyền.
Theo Luật Thương mại Việt Nam 2006, Điều 284
thì "Nhượng quyền thương mại là hoạt động Thương mại, theo đó bên nhượng quyền
cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành vìệc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ theo các điều kiện:
- Vìệc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
được tiến hành theo cách thức Tổ chứckinh doanh do bên nhượng quyền quy định
và được gán với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh,biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và
trợ giúp cho bên nhận quyền trong vìệc ‘' điều hành công vìệc kinh
doanh"
1.3. Nhượng
quyền kinh doanh khách sạn, nhà hàng
Nhượng quyền thương mại được thế giới nhìn nhận
là khởi nguồn tại Mỹ những thực tế đã hình thành trước đó tại Trung Quốc với
hình thức có 2 - 3 điểm bán lẻ cùng hình thức tại một số địa điểm khác nhau
cùng kinh doanh. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hình thức này đã thực sự phát
triển rất mạnh mẽ. Sự bùng nổ dân số sau chiến tranh đã kéo theo sự tăng vọt
nhu cầu về các loại sản phẩm và dịch vụ và lúc này, nhượng quyền đã trở thành mô
hình kinh doanh thích hợp để phát triển nhanh chóng trong ngành công nghiệp
thức ăn nhanh và khách sạn. Vào thập niên 60-70, nhượng quyền bùng nổ và phát
triển mạnh trong lĩnh vực khách sạn ở Mỹ, Anh và một số nước khác. Hình thức
nhượng quyền chiếm khoảng 50% tổng số phòng khách sạn hiện nay trên thế giới.
Hình thức này đặc biệt phát triển tại Mỹ. 10 tập đoàn kinh doanh khách sạn nổi
tiếng nhất thế giới hiện nay đều cung cấp nhượng quyền. Vì vậy, trong thực tế có
nhiều khách sạn, nhà hàng mang biểu tượng là Holiday Inn, ITT Sheraton, Hilton,
Choice, Quality, McDonald's, KFC... thực tế do các nhà đầu tư địa phương độc
lập sở hữu.
Quá trình toàn cầu hóa trên thế giới diễn ra
rất nhanh, mạnh trong tất cả các lĩnh vực. Hình thức nhượng quyền càng phát huy
vai trò của nó trên toàn thế giới. Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12 phút
lại có 1 hệ thống nhượng quyền mới ra đời. Ở Mỹ, 90% công ty kinh doanh theo
hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 10 năm trong khi 82%
công ty độc lập phải đóng cửa. Điều đó cho thấy sự bùng nổ hình thức này trên
thế giới là điều tất yếu. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên
toàn thế giới năm 2000 đạt 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác
nhau. Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm trên 40% tổng mức bán lẻ, thu hút
được trên 8 triệu người lao động tương ứng 1/7 tổng lao động ở Mỹ, có hơn
550.000 cửa hàng nhượng quyền và cứ 8 phút lại có một cửa hàng nhượng quyền mới
ra đời. Ở châu Âu, tổng cộng có hơn 4.000 hệ thống nhượng quyền thương mại với
167.500 cửa hàng, doanh thu đạt khoảng 100 tỉ euro, tạo ra hơn 1.5 triệu vìệc
làm. Ở Anh, nhượng quyền là một trong những hoạt động tăng trường nhanh nhất
của nền kinh tế với khoảng 32.000 doanh nghiệp nhượng quyền, doanh thu mỗi năm
8,9 tỷ bảng Anh, thu hút một lượng lao động lớn với khoảng 317.000 lao động
và chiếm trên 29% thị phần bán lẻ. Nhượng quyền kinh doanh thương hiệu riêng ở
khu vực châu Á đã tạo doanh thu hơn 50 tỷ USD mỗi năm, Tại Nhật Bản, nhượng
quyền thương mại phát triển mạnh từ năm 1996, đến nay đã có trên 1.200 hệ thống
nhượng quyền thương mại và trên 250.000 cửa hàng nhận nhượng quyền thương mại,
doanh thu từ công nghệ nhượng quyền thương mại là khoảng 150 tỉ USD, tăng
trưởng hàng năm 7%. Nhượng quyền thương mại vào Trung Quốc từ năm 1980. Đến
nay, nước này đã có trên 2.500 hệ thống nhượng quyền (nhiều nhất thế giới), với
150.000 cửa hàng nhượng quyền trong 60 lĩnh vực khác nhau.
Nhượng quyền thương mại mặc dù là một hình thức
kinh doanh có xu hướng phát triển mạnh mẽ, song, kinh doanh nhượng quyền trong
lĩnh vực khách sạn cũng phải có những điều kiện nhất định. Khi tiến hành nhượng
quyền, các khách sạn nhượng quyền sẽ chuyển giao phương thức kinh doanh của
mình cho các khách sạn nhận quyền để hoạt động. Như vậy, yếu tố quan trọng
nhất để đánh giá đối tác "mua" franchise vẫn là khả năng tài chính của bên mua.
Thật ra, khách sạn dự kiến "mua" franchise mới là chủ thể xem xét phương thức
kinh doanh của khách sạn nhượng quyền có thực sự mang lại lợi nhuận và an toàn
hay không, để quyết định vìệc đầu tư, "mua" franchise của khách sạn nhượng
quyền đó. Khách sạn nhận quyền (còn gọi là các đại lý đặc quyền) có thể là một
cá nhân, một nhóm các nhà đầu tư hay một tập đoàn nhỏ, khi mua quyền kinh doanh
khách sạn, nhà hàng phải trả một khoản lệ phí ban đầu từ 50.000 đến 2 triệu
USD. Các thương hiệu nhượng quyền thành công nhất thế giới do tạp chí
Entrepreneur bình chọn đều có mức phí này khá cao.
- Subway. Ngành kinh doanh: thực phẩm (bánh mì kẹp thịt, salad); Phí nhượng quyền: 74.900 USD - 222.800 USD
- Dunkin' Donuts. Ngành kinh doanh: thực phẩm (bánh ngọt, bánh rán); Phí nhượng quyền: 179.000 USD - 1,6 triệu USD.
- Jackson Hewitt. Ngành kinh doanh: cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực thuế; Phí nhượng quyền: 48,600 USD - 91.800 USD.
- Domino's Pizza. Ngành kinh doanh: thực phẩm (pizza, bánh mỹ); Phí nhượng quyền: 141.400 USD-415.100 USD.
- Sonic Drive-In. Ngành kinh doanh: nhà hàng ăn nhanh drive-in (lái xe vào tận quầy); Phí nhượng quyền: 861.300 USD.
- McDonald's. Ngành kinh doanh: thực phẩm (hamburger, gà rán, salad); Phí nhượng quyền: 506.000 USD -1,6 triệu USD.
- Papa John's Int'l. Ngành kinh doanh: thực phẩm (pizza); Phí nhượng quyền: 250.000 USD.
Bên cạnh đó, các khách sạn nhượng quyền còn
phải trả phí bản quyền hoạt động theo một tỷ lệ trên doanh thu phòng hàng
tháng. Các khách sạn nhượng quyền của Holiday Inn phải trà tiền bản quyền là 4%
doanh thu phòng. Những khoản lệ phí bổ sung có thể phải trả cho nhà nhượng
quyền là quảng cáo, sử dụng hệ thống đăng ký đặt phòng qua máy vì tính và các
dịch vụ khác.
Trong kinh doanh dịch vụ nói chung và kinh
doanh khách sạn, nhà hàng nói riêng, sự hài lòng của khách hàng là cần thiết
nhất, hơn cả công suất phòng, công suất sử dụng. Báo cáo hàng năm của Hiệp hội
J.D Power và Danh mục đo lường sự thỏa mãn khách hàng ở các khách sạn thuộc
Hiệp hội Bắc Mỹ đã đưa ra 6 tiêu chuẩn đo lường độ thỏa mãn khách hàng: làm
thủ tục check in/ check out, trang trí phòng cho khách, thức ăn thức uống, dịch
vụ của khách sạn, dịch vụ cộng thêm, chi phí và tiền phòng. Còn đối với chuỗi
khách sạn sẽ được đánh giá theo 6 yếu tố: độ sang trọng, đẳng cấp cao, dịch vụ
trọn gói trung đẳng, dịch vụ giới hạn trung đẳng, ngân sách/tài chính và dịch vụ
mở rộng. Khách hàng đóng vai trò là người giám định giá trị sản phẩm mới và
dịch vụ của các chuỗi khách sạn. Vì vậy, để đảm bảo cho khách hàng được tiêu
dùng dịch vụ với tiện nghi, lợi ích như nhau tại mọi địa điểm thì nhượng quyền
khách sạn, nhà hàng là xu hướng tất yếu trong lĩnh vực khách sạn, nhà
hàng.
2. Lợi ích và rủi
ro của các khách sạn, nhà hàng nhượng quyền
Nhượng quyền kinh doanh khách sạn mang lại
những lợi thế cho nhà đầu tư thay vì họ phải tự xây dựng từ đầu. Ở Vìệt Nam,
mặc dù khái niệm này chưa được phố biến, nhưng trên thực tế cũng đã phát triển
nhiều thương hiệu như Hilton của BJackstone, Sofitel của tập đoàn Accor, khách
sạn Legend (Marriott), Phở 24, Kinhdo Food, khách sạn Ramada,... Tại sao hình
thức nhượng quyền thương mại lại đươc phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực khách
sạn, nhà hàng như vậy? Đơn giản bởi đây là một phương thức kinh doanh "đôi bên
cùng có lợi", cho cả hai bên nhượng quyền và nhận quyền.
2.1. Lợi
ích
Những lợi ích từ nhận quyền của các khách sạn,
nhà hàng có thể có được gồm:
- Ít rủi ro: Lợi ích ban đầu của vìệc thuê
nhượng quyền là tính ít rủi ro. Với tỉ lệ thất bại 90% trong 3 năm đầu, vìệc
bắt đầu một sự nghiệp mới - một thương hiệu mới là khá nguy hiểm. Bản thân chủ
khách sạn hay nhà hàng không chỉ đưa ra sản phẩm hay dịch vụ hấp dẫn của mình
mà còn phải nắm bắt được quá trình hoạt động, tìm và tiến tới mục tiêu của
khách hàng và đạt được mục tiêu kinh doanh đã đặt ra. Vìệc thuê nhượng quyền sẽ
giảm thiểu những rủi ro mà thực tế kinh doanh đặt ra nhờ lợi thế cạnh tranh
của bên nhượng quyền, tăng những hiệu quả của nó với sự hỗ trợ từ phía thương
hiệu mạnh và marketing, địa điểm và đào tạo.
- Thử trước khi mua. Một lý do khác để mua
nhượng quyền là sự đầu tư vào loại hình kinh doanh được nghiên cứu kỹ lưỡng
trước khi đưa vào tiêu thụ. Bên mua nhượng quyền có thế thử sức trước khi mua
để chắc chắn là nó có phù họp với họ không. Các tập đoàn khách sạn, nhà hàng
có tiếng tăm thường bán loại hình kinh doanh đã thành công, đã xác định rõ
phương thức hoạt động, các sản phẩm dịch vụ đã được tiêu thụ mạnh.
- Sức mạnh kinh doanh theo nhóm: Các khách sạn
nhận quyền có thể mua các yếu tố sản xuất đầu vào với giá thấp thông qua các
tập đoàn khách sạn nhượng quyền, vì vậy tất cả các khách sạn nhận quyền đều có
khả năng thắng lợi. Các khách sạn, nhà hàng nhượng quyền thương hiệu thường có
sự công nhận của quốc gia hay địa phương. Trong khi điều này có thể không đúng
đối với chi nhánh mới.
- Sự trung thành của người tiêu dùng: Nhượng
quyền kinh doanh sẽ cung cấp hệ thống dịch vụ khách sạn, nhà hàng nhất quán
trong quá trình hoạt động, tạo tiêu chuẩn hóa dịch vụ toàn cầu. Nhờ vậy mà
người tiêu dùng sẽ được nhận chất lượng và giá trị sử dụng đồng đều, có hiệu
quả và mang lại lợi nhuận. Một hệ thống nhất quán mang lại những ưu điểm của lợi
thế theo qui mô nhận diện thương hiệu, duy trì sự trung thành của khách
hàng.
- Áp dụng thành công mô hình kinh doanh đã được
thiết lập: Các khách sạn, nhà hàng nhượng chuyền kinh doanh cũng sẽ cung cấp
hoạt động hỗ trợ quản lý cho các khách sạn nhận quyền, bao gồm thủ tục tài
chính, đào tạo và quản lý nhân vìên, qui trình quản lý. Các khách sạn nhận
quyền sẽ vượt qua được sự thiểu kinh nghiệm. Rất nhiều yếu tố của kế họach kinh
doanh là những thủ tục tiêu chuẩn được đặt ra bởi nơi cấp quyền kinh doanh.
Nhưng phần khó khăn nhất là tạo lập lĩnh vực kinh doanh mới, thậm chí đối với
cả những người quản lý kinh nghiệm nhưng thiếu kiến thức.
- Hỗ trợ marketing chuyên nghiệp: Một trong
những thuận lợi lớn nhất của vìệc cấp quyền kinh doanh là họat động marketing
hỗ trợ từ phía các khách sạn cung cấp nhượng quyền. Nơi cấp quyền kinh doanh có
thể trả chi phí cho vìệc phát triển những chiến dịch quảng cáo chuyên nghiệp.
Vìệc marketing trong phạm vì quốc gia hay địa phương đều có lợi cho tất cả các
khách sạn được nhượng quyền, đồng thời, các khách sạn cung cấp quyền kinh doanh
cũng sẽ chia sẻ chi phí trong hoạt động marketing và giúp phát triển chương
trình marketing có hiệu quả cho khách sạn nhận quyền.
- Hỗ trợ tài chính: Các khách sạn được nhượng
quyền trong quá trình hoạt động có thể nhận được sự giúp đỡ trong vấn đề tài
chính từ các khách sạn cung cấp nhượng quyền. Các khách sạn cung cấp nhượng
quyền thường tạo ra những sắp xếp với những nguồn cho vay để cho một chi
nhánh vay tiền, những cam kết hỗ trợ từ phía các khách sạn cung cấp nhượng quyền
luôn tăng các khả năng hỗ trợ các khoản nợ cho các khách sạn nhận quyền.
2.2. Rủi ro
Bên cạnh những lợi ích ở trên thì hình thức
nhượng quyền trong kinh doanh khách sạn, nhà hàng cũng có nhiều rủi ro, nhiều
tình huống có thể xảy ra đòi hỏi các khách sạn, nhà hàng nhận quyền phải đầu tư
thời gian và tiền bạc để mang lại hiệu quả.
- Trước hết, các khách sạn mua nhượng quyền
do được hưởng lợi từ thương hiệu đã có uy tín mang lại nên phải đóng phí nhượng
quyền và chia sẻ một phần lợi nhuận cho chủ thương hiệu theo định kỳ hàng tháng
(royalty fee) và do vậy, sẽ gặp rủi ro khi kinh doanh không hiệu quả.
- Các khách sạn nhượng quyền trao quyền cho
một bên khác để thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình, đương nhiên cũng phải
chịu rủi ro khi bên nhận quyền thực hiện không đúng các ý tưởng này, khiến công
vìệc kinh doanh bị đổ bể, gây ấn tượng xấu cho hệ thống kinh doanh của mình
"con sâu làm rầu nồi canh"; đồng thời làm giảm giá trị thương hiệu cũng như công
vìệc kinh doanh của mình.
-Các khách sạn nhận quyền phải thực hiện hệ
thống kinh doanh của khách sạn nhượng quyền một cách cứng nhắc, không thể được
chủ động trong ý tưởng của riêng mình vào kinh doanh. Bởi vì một đặc điểm trong
các hệ thống nhượng quyền thương mại là các cơ sở kinh doanh phải hoàn toàn
tương đồng để khách hàng có thể nhận ddwwocj giá trị toàn cầu khi đến bất cứ cơ
sở kinh doanh nào trong hệ thống. Điều này nhiều khi hạn chế tính sáng tạo
trong công vìệc kinh doanh, hạn chế chính công vìệc, hiệu quả kinh doanh của
bên nhượng quyền.
Do đó, mua nhượng quyền hay tự xây dựng một mô
hình kinh doanh với thương hiệu độc lập là quyết định tùy thuộc vào mục đích và
nhu cầu của mỗi chủ đầu tư. Nếu chủ đầu tư không thích hợp mua nhượng quyền
thì sẽ không bao giờ hài lòng và hợp tác tốt với chủ thương hiệu hay người bán
franchise. Còn chủ thương hiệu thì sẽ không bao giờ chấp nhận duy trì hợp đồng
nhượng quyền cho các đối tác luôn "sáng tạo" và không tuân theo những tiêu
chuẩn chung của hệ thống chuỗi cửa hàng. Vì tính đồng nhất có vai trò quyết định
trong sự thành bại của một hệ thống nhượng quyền.
- Ngoài ra, cũng có rất nhiều khách sạn nhượng
quyền nước ngoài muốn lợi dụng vị trí "bề trên" của mình đế áp đặt, o ép các
khách sạn nhận quyền Vìệt Nam, nhất là phải chịu áp dụng những quy tắc hoàn
toàn phi lý và cuối cùng dẫn đến toàn bộ hệ thống bị đổ bể.
3. Một số ý
kiến trao đổi về phát triển hình thức nhượng quyền trong lĩnh vực kinh doanh
khách sạn, nhà hàngở Việt Nam
Để có được những lợi ích cao nhất và giảm
thiểu những rủi ro do hình thức nhượng quyền kinh doanh khách sạn mang lại, các
khách sạn Vìệt Nam cần rất thận trọng khi đưa ra quyết định này:
- Trước hết, các khách sạn
Vìệt Nam trước khi tham gia vào hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại,
cần tìm hiểu kỹ lưỡng xem đây có phải là một hình thức kinh doanh có thể thành
công với điều kiện hiện nay của khách sạn không. Phương thức kinh doanh của bên
nhượng quyền đã thành công trong một vài cơ sở chưa chắc sẽ thành công trong
điều kiện môi trường, khả năng của khách sạn nhận quyền. Bởi vì thông thường,
số vốn bỏ ra đầu tư vào một cơ sở nhượng quyền thương mại là khá lớn so với
vìệc tự lập cơ sở kinh doanh riêng. Nếu tự lập cơ sở kinh doanh riêng thì có
thể "liệu cơm gắp mắm", nhưng đã tham gia vào một hệ thống nhượng quyền thương
mại, thì phải tuân thủ những ý tưởng đã được định sẵn. Vì thế, nếu không cẩn
thận rủi ro sẽ là tương đối cao.
- Thứ hai, nhiều hợp đồng
nhượng quyền thương mại yêu cầu khách sạn nhận quyền phải trả một khoản phí
nhượng quyền cố định, kể cả khi hoạt động kinh doanh không có lãi. Đây là vấn
đề mà khách sạn nhận quyền phải cân nhắc kỹ, liệu khả năng tài chính dự
phòng của mình có đủ để đáp ứng nghĩa vụ này không.
- Thứ ba, nhiều hợp đồng
nhượng quyền thương mại trao quyền rất lớn cho các khách sạn nhượng quyền trong
việc chấm dứt hoặc gia hạn hợp đồng. Khách sạn nhận quyền nên nghiên cứu, đàm
phán kỹ những điều khoản này bởi vì bên nhượng quyền có thể lợi dụng những điều
khoản này để chấm dứt hoặc không gia hạn hợp đồng cho bên nhận quyền, gây thiệt
hại, bất lợi cho bên nhận quyền.
- Thứ tư, nếu bên nhận quyền
là một nhà đầu tư năng động, sáng tạo, thích những ý tưởng của riêng mình, thì
việc tham gia vào một hệ thống nhượng quyền thương mại là không hợp lý bởi vì đã
vào hệ thống này họ sẽ phải liên tục chấp hành "mệnh lệnh" của bên nhượng
quyền, kể cả những "mệnh lệnh" mà bên nhận quyền cho là bất hợp lý.
- Thứ năm, một hệ thống
nhượng quyền thương mại tốt phải có sự tương tác giữa khách sạn nhận quyền và
khách sạn nhượng quyền. Khách sạn nhượng quyền nên có những hình thức đào tạo,
hỗ trợ, tư vấn cho khách sạn nhận quyền. Mặt khác, khách sạn nhận quyền cũng
cần có cơ hội được phản ánh, đóng góp ý kiến cho khách sạn nhượng quyền. Nếu
quan hệ mang tính chất quá "một chiều", không tính đến lợi ích của cả đôi bên
thì cả bên nhượng quyền và các bên nhận quyền cũng cần cân nhắc lại.
- Thứ sáu, khách sạn nhận
quyền nên kiểm tra kỹ lưỡng động cơ nhượng quyền của khách sạn nhượng quyền,
tránh trường hợp khách sạn nhượng quyền chỉ muốn khoản tiền phí trước mắt của
khách sạn nhận quyền mà không quan tâm đến lợi ích lâu dài của khách sạn nhận
quyền và hệ thống kinh doanh nói chung.
- Thứ bảy, khách sạn nhận
quyền cũng nên lựa chọn các khách sạn nhượng quyền một cách cẩn thận. Một
khách sạn nhận quyền kinh doanh không tốt có thể gây tổn hại rất lớn cho khách
sạn nhượng quyền và rộng hơn là cho cả hệ thống. Sự thành công của khách sạn
nhận quyền cũng chính là sự thành công của khách sạn nhượng quyền.
- Thứ tám, các khách sạn
nhượng quyền hay yêu cầu các khách sạn nhận quyền đóng góp lập các quỹ chung như
quỹ quảng cáo, quỹ khuyến mại. Việc sử dụng tiền từ các quỹ này phải thật sự
minh bạch, không nên gây mất lòng tin của các khách sạn nhận quyền từ việc sử
dụng những quỹ này.
- Thứ chín, cũng như bất cứ
ngành nghề nào kinh doanh nhượng quyền cũng có rủi ro thất bại và đòi hỏi người
chủ phải sâu sát và dành riêng một quỹ thời gian nhất định cho khách sạn. Kinh
doanh nhượng quyền như hình thức "nhân bản vô tính". Nhưng trên thực tế thì các
khách sạn mua nhượng quyền cũng có thể có những thay đôi nhỏ từ trang trí nội
thất đến cách thức phục vụ để phù hợp hơn với nhu cầu địa phương. Người mua
nhượng quyền phải sẵn sàng cho việc mình phải điều hành khách sạn của mình, có
thể như một nhân viên.
- Cuối cùng, các nhà lập pháp
nên tạo một cơ chế để các khách sạn nhượng quyền cung cấp thật đây đủ thông tin
cho các khách sạn nhận quyền có thể có một quyết định đúng đắn và có trách
nhiệm, tránh các rủi ro có thể xảy ra với các bên như nêu trên.
Như vậy, trong một thế giới không biên giới,
toàn cầu hóa du lịch tác động rất lớn đến những xu hướng kinh doanh trong lĩnh
vực khách sạn, nhà hàng, giải trí,... Các nhà đầu tư cần cân nhắc kỹ những thuận
lợi và khó khăn, những lợi ích nhận được và rủi ro tiềm tàng để có quyết định
chính xác, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của ngành du lịch Việt
Nam và đẩy nhanh sự hội nhập du lịch Việt Nam với du lịch trong khu vực và trên
thế giới.
0 nhận xét | Viết lời bình